Showing posts with label Từ câu chuyện của một thuyền nhân. Show all posts
Showing posts with label Từ câu chuyện của một thuyền nhân. Show all posts

5/19/09

Từ câu chuyện của một thuyền nhân

This is a piece written for VietTide, using An Nguyen's memory, a Vietnamese Boat People as a starting point.Last year,me and my friend, Ngoc Lan, both were touched deeply because of this story.We did not know why. May be because we both did not have personal experience as Boat People.We learnt by slowly listening and asking the very detail questions.
Using the story as the initial inspiration, we each pursuited our own project differently.
One is series of paper boat drawings. Another one is this story below. It is quite a story.
Thanks for An Nguyen, who really took his time to recall his unique story so we could fulfill our project. Hope that our readers, here and back in Vietnamese as well, understand and appreciate this story as a part of our painful history so as a VietNamese, together we can move on to have a better future, if not for us, then for our youngers.

Từ câu chuyện của một thuyền nhân

Bên ghè đá của một bờ biển Nam Cali, trong rì rầm tiếng sóng của một chiều chưa tắt nắng, tôi trôi miên man trong câu chuyện của một thuyền nhân mang tên An Nguyễn.
“Tôi sinh ra tại miền Nam Việt Nam, vào một ngày tháng 8 năm 1965. Cha tôi là một người lính trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Mẹ tôi buôn bán nhỏ. Khi cộng sản Bắc Việt tiến chiếm miền Nam tháng 4 năm 1975, cha tôi, như trăm ngàn người lính miền Nam khác, phải vào các trại “học tập cải tạo” để hứng chịu sự tra tấn cả về thể xác lẫn tinh thần qua những công việc lao động hà khắc, qua cái thiếu ăn khủng khiếp, cũng như qua các trại biệt giam trong 12 năm ròng rã. Công việc buôn bán của mẹ tôi cũng bị tịch thu. Chúng tôi đã phải làm tất cả mọi chuyện mà chúng tôi có thể để xoay xở với cuộc sống. Tôi không hề nghĩ rằng bằng cách nào mà chúng tôi đã tồn tại qua những năm tháng đó.
Từ năm 1979 đến 1981, tôi đã nhiều lần thất bại trong việc trốn thoát khỏi Việt Nam, và bị bắt hai lần. Mỗi lần, tôi chỉ ở tù một tháng, bởi mẹ tôi đã lo lót cho tôi thoát ra ngoài. Trong tù, tôi cũng bị đánh đập nhưng tôi không xem đó là sự tra tấn. Bởi so với những gì mà cha tôi đã trải qua, nỗi đau mà tôi phải chịu chỉ như trò con trẻ. Cuối cùng, vào tháng 8 năm 1981, ở tuổi 16, tôi đã trốn đi thành công trên một chiếc thuyền nhỏ để đến được Hồng Kông sau 4 ngày trên biển ‘South China’. Trải qua 8 tháng ở trại tị nạn, tôi đến Mỹ vào tháng 4 năm 1982…”
Có thể hình dung vài nét phác thảo về diện mạo của An là như thế. Diện mạo đó tôi cũng như bạn có thể bắt gặp trong hàng triệu thuyền nhân khác đang sống quanh đây hay ở bất kỳ một quốc gia nào khác trên trái đất này.
Nhưng để tìm hiểu một con người, một số phận, không thể chỉ dừng lại ở một dáng vẻ bề ngoài. Mỗi cuộc đời là một câu chuyện, câu chuyện đó có thể nhàm chán với người này nhưng lại là nguồn suy nghĩ cho người khác. Câu chuyện của An Nguyễn – chỉ là những mảnh kí ức cóp nhặt từ những gì còn ghi dấu trong tiềm khảm – cứ như một ma lực dẫn dắt tôi miên man trong nhiều dòng suy nghĩ, cái này dẫn tới cái kia, chuyện này liên quan chuyện nọ, tất cả cứ như xô đẩy, chen lấn nhau để mà hiện hình sao cho thật rõ ràng, thật cụ thể trong miền tâm tưởng của tôi.
Tôi suy nghĩ về từ “escape” mà An đã dùng nhiều lần để nói về chuyện “vượt biên” của mình. Tôi đã nghe cả trăm cả triệu lần từ ‘vượt biên’ nhưng sao tôi vẫn thấy lòng thật nặng khi bắt gặp từ ‘escape’. Tại sao người ta phải trốn chạy, phải cố gắng bằng mọi cách thoát đi để tìm cho mình một con đường sống khi mà Sài Gòn ‘giải phóng’?
“Ba mẹ tôi có 7 người con trai và 3 người con gái. Tôi thứ 8, thứ 9 là một đứa em trai và 10 là cô em gái. Hai người anh lớn của tôi vượt biên đến Paulau Bidong , Malaysia năm 1978. Sau đó 3 người anh nữa đến đảo Galang , Indonesia năm 1979. Kế tiếp là anh rể tôi đi năm 1980. Tôi đi năm 1981… Rồi đến chị tôi, rồi em trai tôi…”
Gia đình An chỉ là một điển hình cho chuyện “escape”. Không phải chỉ là một, là hai, mà là hàng trăm, hàng triệu người đã phải ‘trốn chạy’ như thế, để tạo thành một làn sóng di tản, tạo nên cả một trang sử thuyền nhân vô cùng bi thảm. Thế nhưng trong số hơn 80 triệu người Việt Nam còn nơi quê nhà, có bao nhiêu người hiểu hết được câu chuyện của những thuyền nhân vượt biển? Bao nhiêu người tận mắt đọc được những trang đẫm nước mắt của dân tộc mình trên cùng một quyển sách mang tên “Lịch Sử Việt Nam”?
Mỗi lần đọc chuyện của những người vượt biên là tôi cứ lại nhớ về một người bạn của mình: Trần Thị Cẩm Hồng. Kết thúc năm học lớp 10, cả lớp gần 40 đứa tụ tập đi Lái Thiêu. Không có anh em Hồng-Hùng trong số đó. Chiều ngày hôm sau, ngày cuối cùng của tháng 5 năm 1988, Như Hà đạp xe lên nhà tôi và báo tin “L ơi, Cẩm Hồng chết rồi!”. Tôi sững sờ: “Sao Hà biết?”, rồi chợt nhớ ra là Như Hà và Cẩm Hồng ngồi cạnh nhau suốt năm học đó… Trong hành trang mang theo cho chuyến vượt biển của mình, Hồng đã mang theo quyển Nhật Kí mà trang đầu tiên đã ghi: “Nếu ai nhặt được quyển sổ này xin hãy mang đến cho bạn tôi: Nguyễn Thị Như Hà, địa chỉ…”. Hà nói: người mang quyển nhật kí đã tìm đến nhà của Hà ở quận 11 để trao và kể lại: “một chiếc tàu vượt biên bị bắn ở Mỹ Tho, nhiều người chết… trong số những thứ người ta vớt được có quyển sổ này…” Tôi nhớ sau đó tôi vào nhà kể cho ba má tôi nghe, xong tôi lên gác ngồi khóc… Tôi thực sự không nhớ rõ ràng cảm xúc của mình khi đó, qua những dòng nhật kí còn lưu giữ, tôi chỉ biết rằng “Lần đầu tiên trong đời mình cảm thấy thế nào khi một người bạn không còn có mặt trên trái đất này…” Như Hà, tôi và 1 vài người bạn nữa đã đến để chia sẻ với mẹ Cẩm Hồng… Ngày 3 tháng 6, chúng tôi cũng đã cùng nhau về Mỹ Tho để mong được dự đám ma bạn bởi người nhà báo tin hôm đó sẽ vớt được xác… Chúng tôi đã ngồi đợi ở một ngôi chùa đến tận chiều tối, vẫn không thấy tăm hơi… Hai ngày sau, nghe mẹ Hồng nhắn đã tìm thấy xác anh trai của Hồng, còn Hồng thì vẫn trôi mãi nơi đâu… Nhiều đêm sau đó, Như Hà vẫn cứ hay nằm mơ thấy Hồng “quay về”: “Hà ơi, Hồng lạnh lắm!…” Hà kể, và chúng tôi lại ngồi khóc với nhau… Hà không duy tâm, tôi cũng vậy, nhưng tôi tin có những niềm dự cảm như thế…
Quay về câu chuyện của An Nguyễn. An kể về cái đêm ngồi chờ xuống tàu trên một cái ‘gì đó’ của những người đánh cá: “Tôi ngồi trên đó, tự giữ thăng bằng trên những chiếc cọc gỗ, giống như người ta làm xiếc vậy, nếu không tôi sẽ chết. Dĩ nhiên là tôi RẤT sợ. Tôi ngồi một mình nơi đó lúc giữa đêm khuya. Tôi nhớ là tôi RẤT sợ, tôi nghĩ đến chuyện nếu tôi té xuống, tôi sẽ chết. Ðến tận bây giờ, mỗi lần nhớ lại cảm giác lúc đó, tôi vẫn còn nghe ‘lạnh xương sống’… Tôi không cảm thấy cô đơn, mà chỉ thấy sợ hãi, sợ bị bắt, nhưng hơn hết vẫn là sợ rơi xuống và chết. Tôi cố gắng giữ chặt lấy những cây cọc chung quanh, để giữ thăng bằng cho mình… Tôi đang cố gắng giữ lấy cuộc sống thân thương này…”
Tôi đọc không biết bao nhiêu lần đoạn kể trên, mà mỗi lần đọc là mỗi lần day dứt: những người vượt biển không phải là những người không biết sợ. Nhưng có cái gì còn đáng sợ hơn nữa để họ phải bất chấp nỗi sợ như An? Hay có thể sẽ phải chịu những cái chết tức tưởi như bạn tôi khi chưa bước qua được tuổi 16? Người ta chỉ sợ chết khi người ta còn tha thiết lắm với cuộc sống này. Và đã sống thì phải sống sao cho đáng một kiếp người, được đối xử như một con người.
Nói về lí do vì sao phải ra đi, An chỉ nói một cách ngắn gọn: “Gia đình tôi cũng như nhiều người khi đó. Càng ngày càng không thể sống được ở Việt Nam, vì thế chúng tôi phải ra đi.”
Câu trả lời nhẹ tênh cùng lí do tưởng chừng quá đơn giản nhưng sao cứ như xoáy vào đầu tôi một câu hỏi: Còn gì đau đớn hơn khi người ta không thể tồn tại được ngay trên mảnh đất quê hương mình, phải rời khỏi nơi chôn nhau cắt rốn bằng những cuộc vượt biên, trốn chạy để rồi phải mang trên mình tên gọi là “kẻ phản quốc”?
Tôi đã dừng lại thật lâu ở đoạn An nói về “soul catcher” mà tôi chưa biết phải diễn tả nó như thế nào bằng tiếng mẹ đẻ của mình cho thật hết
những gì chất chứa trong 2 từ đó: “Những người Việt Nam vượt biên không phải là những kẻ phản quốc. Họ yêu tha thiết quê hương mình, và tình yêu đó càng mạnh mẽ hơn nhiều sau khi họ vượt biển ra đi. Họ ra đi chỉ vì họ không thể sống thêm được ở đó. Hãy hỏi bất kỳ thuyền nhân nào để biết rằng những năm đầu sau khi vượt biên, ai cũng nhớ nhà kinh khủng, họ luôn nằm mơ, giấc mơ đúng nghĩa hằng đêm: mơ được trở về. Ðó là sự hòa quyện đan xen của những cảm xúc ngổn ngang trái ngược: vui mừng biết bao khi thoát khỏi quê hương và khao khát vô cùng sự trở về…”
Sẽ không thể nào hiểu hết được tâm trạng đó của An cũng như những người vượt biển khác khi không biết rằng ở vào thời điểm ấy ra đi là không có hy vọng ngày trở về, hay nói đúng hơn ngày được quay về hãy còn là cái gì mờ mịt lắm! Cũng là một quy luật của muôn đời: cái gì không ở trong tầm tay thì lại càng khiến cho người ta cháy bỏng hơn những nỗi khát khao. Hiểu được như vậy thì mới hiểu hết nỗi ‘nhớ nhà kinh khủng’ mà An nhắc đến nó khắc khoải và da diết đến mức nào!
“Soul catcher” – người ‘bắt giữ’ linh hồn đó của những thuyền nhân không ai khác hơn là quê hương. Có làm người xa xứ tha hương thì mới cảm thông hết được nỗi niềm lưu luyến mảnh đất cha ông. Ði đâu, ở đâu, làm gì rồi thì linh hồn của mỗi người cũng đều có 1 hướng để vọng về: nơi chôn nhau cắt rốn. Không thể chối bỏ, không thể khước từ: “soul catcher”.
Tôi nhớ vào những ngày tháng đó, anh trai tôi, cũng bằng tuổi An, cũng là một thuyền nhân. Từ đảo Galang, mỗi lá thư anh gửi về nhà là mỗi lá thư đẫm nước mắt của ba má và các anh chị em tôi. Tôi cứ nhớ hoài khi ấy tôi chỉ mới 8, 9 tuổi, tôi đọc lá thư anh viết: cứ sau những giờ lao động làm thêm để kiếm tiền, anh vẫn thường ghé đến những ‘ngôi trường’ dạy trẻ em tị nạn, nhìn những đứa bé đó và hình dung ra chúng tôi – những đứa em gái ở nhà – bây giờ đã thay đổi ra sao, rồi anh ao ước giá như anh được quay về để nói rằng anh thương chúng tôi lắm… Tôi đọc và nước mắt cứ chảy, cứ nghe tim mình thắt lại như ngay lúc này…
Tôi lại chợt nhớ đến tâm sự của một người từng làm báo, sang định cư nơi đây theo diện H.O vào đầu những năm 1990. Anh nói: Người Việt nơi đây (trên đất Mỹ này) mang những nỗi niềm mà các dân tộc khác không hề có. Tôi chưa thực sự hiểu nỗi niềm anh muốn nói đến là gì, nhưng tôi cứ trăn trở với câu nói đó. Và tôi lí giải nó theo cách riêng của mình.
Nỗi niềm đó, phải chăng là nỗi niềm như An vừa kể, nỗi niềm của những kẻ tha hương, không thể sống trên mảnh đất tổ tiên, chọn quê người làm chốn dung thân, nhưng vẫn canh cánh trong lòng ngày trở về. Nỗi niềm ‘giữa hai miền mưa nắng’ như nhà văn Hoàng Mai Ðạt đã viết: “Quê hương tôi không ở bên kia, cũng không phải ở đây, mà ở đâu đó giữa hai nơi. Tôi rời VN quá sớm để có những kỷ niệm êm đềm với VN… Tôi không có nhiều gốc rễ ở bên kia, tôi cũng không có gì ở bên đây. Những người rời xa quê hương quá sớm đều không có nơi để trở về.”
Nhưng dẫu biết là như vậy nhưng những người như An, như tác giả Hoàng Mai Ðạt, hay bất cứ một người xa quê nào “vẫn cố gắng hòa nhập vào một quê hương mới mênh mông, với một tay bám theo tương lai xa cội nguồn và một tay nắm giữ những quá khứ chưa muốn dứt lìa. Hai dòng sống vẫn trôi nhanh, cách biệt, bất kể những bất hạnh, bất lực, những đắng cay và tiếng cười đứng bên cuộc đời. Tôi không thể cưỡng lại dòng sống ở bên đây, và tôi cũng không thể trở về dòng đời bên đó.”
Nắng đã tắt. Màn đêm đã buông. Trong cái mênh mông bất tận đến vô cùng, sóng vẫn rì rầm bài hát ngàn năm của biển khơi mang theo trong đó những câu chuyện, những linh hồn, những ước nguyện không bao giờ nguôi của những người có cùng tên gọi “Thuyền Nhân”…

5/18/09

Paper Boat Project , 2008-09

Entry for March 01, 2009

Năm ngoái, song song với việc chuẩn bi bài triễn lãm tốt nghiệp, tôi bắt đầu mon men với một project mới: paper boat project hay An Nguyễn's story series ( câu chuyện của Nguyễn An ).
Project này để câp tới vấn đề thuyền nhân. Một đề tài tôi không hề có kinh nghiêm nhưng rất muốn khai thác. Tôi đã có dip làm về đềi tài này vào năm 2006 trong cái solo show ở Berkeley, và dư đinh làm một cái installation lớn, xử dung nhang và vải mùng để vinh danh thuyền nhân. Đùng một cái, cuôc biểu tình 2008 chống báo Người Việt làm moi thứ thay đổi.

Tôi bỏ giữa chừng cái installation Boat để làm một cái instalation khác, như thể trưc tiếp đối thoai với vu biểu tình, Red and Yellow Link ( lai có người càu nhàu tiếp này: lai cứ đỏ đỏ vàng vàng). Một măt, chuyển để tài thuyền nhân sang một hướng khác. Tôi không vô tư viện hay online tìm tài liêu vể thuyền nhân nữa mà chủ đông phỏng vấn thuyền nhân Việt Nam.

Rất là may mắn, tôi đươc một người quen trên blog giúp. Không phải ai cũng có thời gian và sức lực để kể lai câu chuyện thuyền nhân của mình. Tôi đã hỏi nhiều người.Nhưng người ta đều từ chối. Vì không có thời gian, vì không muốn nhắc lai hay vì chuyện gì gì đó.

Toi tình cờ đoc đươc câu chuyện của anh trên blog. Và xin phép anh cho tôi dùng câu chuyện của anh " chép" vào tranh của tôi.

Tôi chép từng lời , từng chữ vô những cái tranh mà toi lấy mẫu từ những chiếc thuyền tôi gấp bằng giấy báo. Sau này, tôi văn chương nói lai là tôi gấp chữ làm thuyền.

sketch 4 , line by you.

phát thảo đầu tiên nè.

sketch 1 by you.

Báo Sài Gòn Giải Phóng ban tôi gủi qua.

paper boat 3, 2008 by you.

sketch 3 with back ground by you.

sketch 2 by you.

sketch 6, 2 boats by you.

Một ngày, tôi bỏ ra 4-5 tiếng, vẽ ký hoa thôi. Ông surpervisor nói. Vẽ lớn ra. Ngồi ký ký hoa hoa hoài . Làm thât lớn ra xem .

paper boat and two sheets of new papers, inkwash by you.

mưc Tàu.

sketch 5, wind torn by you.

Cái này vẽ ngoài trời. Bữa đó gió Davis thổi bung chiếc thuyền giấy. Nên bức ký hoa thành ra như vậy nè.

An Nguyen 's story : Land -off -shore by you.
Land off Sea. pencil on paper. 5 feet by 7 feet. 2008

Cái tranh phóng lớn đầu tiên. Tôi chép nôi dung lai trên blog của anh An . Tôi hy vong làm lớn hơn. Tôi email với anh là tôi muốn làm lớn để khoãng 12 người có thể đứng vừa khít trong cái thuyền vẽ. Vì chiếc thuyền chở anh đi lúc đó có 12 người. Nhưng rốt cuôc, chiếc thuyền lai mang hình dáng một chiêc nôi. Của tôi. Chỉ mình tôi lot thỏm vô thôi . cái tên Land off Sea không phải tôi đăt, mà người khác nghe câu chuyện trên tranh rồi đăt giùm.


Land sickness by you.
Land Sickness, ink on paper, 5 feet by 7 feet, 2008.

Sau bức thứ nhất. Tôi bắt đầu phỏng vấn anh An. Và làm tiếp bức này. Land Sickness. Câu chuyên xoay quanh việc anh tới đươc Hồng Kông, sau bốn ngày chòng chành ngoài biển, lúc lên dươc đất bằng, những người trên thuyền liêu xiêu đi như say ruou. Người ta bi xay sóng, còn người vượt biên lúc lên đươc bờ thì say đất.

Chau Huynh, An Nguyen's Story, Soul Catcher, 2008, pencil on archival paper, 5 feet by 4 and a half feet by you.

Soul Catcher, pencil on archival paper, 5 feet by 4 1/2 feet, 2008, for Yelling Clinic

Tôi làm lai cái tranh này, nhưng với câu chuyên khác. Không hiểu sao tôi thích cái bố cuc nàynhất. Chắc giống hình cái nôi của me chăng? Soul Catcher. Tôi không biết dich ra tiếng Viêt ra sao . Nhưng những cái email anh gỡi cho tôi lúc này đều xoay quanh một chuyện. Người vươt biên luôn tìm cách thoát ra khỏi Việt Nam. Nhưng lúc ra đươc rồi. Ngày đêm mơ có ngày trở lai.
Có phải quê hương Việt đã bắt mất linh hồn của ho rồi hay sao ? Xác đi, nhưng hồn ở lai .


From Prison, To Prison and Jail by you.
From Prison, To prison and Jail, pencil on archival paper, 4 feet by 6 feet, 2008

Bức này kể chuyện anh ở trai ti nan Hồng Kông. Nói là trại, nhưng cũng chỉ là một nhà tù khác thôi. Rồi người vươt biên Nam Bắc trong trai đánh nhau ( một lần nũa) thì cảnh sát Hồng K ông bắt tiếp vô tù ( một lần nữa).

r Tan and oil supply, AnNguyen's story , 208 by you.
Mr Tân and oil suppy, pencil on paper, 4 feet by 6 feet, 2008

Câu chuyên qua lai xoay quanh việc tich trữ dầu cho việc vươt biên. Có những người tổ chức vươt biên chuyên nghiêp. Làm giàu bằng việc tổ chức vươt biên như ông Tân đây. Ông không cần vươt biên. Ông ở lai Việt Nam Sống phè.

to be out (AnNguyen's story) by you.

To Be Out, acrylic on canvas, 24 in by 30 in.

Lần đầu tiên tôi xử dung màu và canvas. Không thích lắm. Cái project này không có duyên với màu sắc? Hay tai tôi chỉ có duyên với màu vàng và đỏ? .To be out. Anh kể chuyện cả gia đình anh tìm đủ moi cách toát ra khỏi Việt Nam. Anh đi ba lần. Hai lần bi bắt , ngồi tù ở Cát Lái và Cà Mau.

food and flesh, ink and gesso on artist old canvas, 2009,30 by 30 by you.
Food and flesh, ink and gesso on old canvas , 30 in by 30 in.

Lần đầu tiên tôi xử dung canvas cũ, gesso ( môt loai giống như vôi tường , hoa sĩ hay quét lên vải trước khi vẽ màu lên) và mưc Tàu . Gesso goi nhớ tới bức tường quét vôi ngày xưa ỏ Cao Thắng mà tôi dùng như giấy vẽ đẻ quệt biết bao nhiêu thứ lên đó. Viết chì, mưc, thâm chí giết con mũi cũng dí lên tường. Thứ mưc tàu thấm lên gesso, từ từ loang loang ra một chút. Rồi thấm đen lai.

Food and Flesh đá đông tới một kinh nghiêm mà ít thuyền nhân nào muốn nói tới. Cannibalism.
Lúc này, chúng tôi phải dừng cuôc phỏng vấn một thời gian vì vấn đề này căng thẳng. Tôi mất ngủ liên tuc. cuoi cung roi cung xong.


An Nguyen 's story: Six, ink and gesso on canvas, 40x30 in by you.

Six, ink and gesso on canva, 30 in by 40 in, 2009

Anh luôn luôn nhớ là gia đình của rất may mắn. Cả gia đình hơn mười mấy người, đi vướt biên sáu lần và bây giờ quây quần hết cả nhà. Sáu lần!

Chau Huynh, An Nguyen's story series ,Comming Back , ink and gesso on canvas, 2008, 30 by 40 by you.

Comming Back, ink and gesso on canvas, 30 by 40 in, 2009.

Câu chuyện trở về. Những người vươt biên, hay đi chính thức hay đi đâu cũng vậy. Về nhà , ừa, về nhà. lần đầu tiên về nhà sau 20 năm. Có gì hơn là khóc !

Comming Back và Six sẽ di triễn lãm New York vào mùa hè này.

Project này tới bữa nay là gần đúng 1 năm.
Hy vong tôi sẽ có dip nghe anh kể tiếp chuyên anh di vuot biên bi bắt ở Cát Lai và Cà Mau. Và chuyện anh đi thăm nuôi ba của anh ở trai cải tao 12 năm .